Thứ Ba, 19 tháng 10, 2010

Phim Nhật Thực và lời bình về bộ phim của một Linh Mục



Tựa đề phim “Nhật thực” (Eclipse) có một diễn giải từ chủ đề. Đó là một hiện tượng thiên nhiên, Nhật thực xảy ra khi Mặt Trăng đi qua giữa Trái Đất và Mặt Trời và che khuất hoàn toàn hay một phần Mặt Trời khi quan sát từ Trái Đất. Tính biểu lộ của nhật thực nói đến giao thoa giữa vật chất và thiêng liêng. Con người trong xã hội tiêu thụ bị vật chất che khuất mất thiêng liêng và con người cảm thấy mình yếu nhược, cầu cứu đến sức mạnh của ma quái. Sau đây là một vài nhận định:

Ma cà rồng và người sói.

Để hấp dẫn câu chuyện, bộ phim đã nhập cả hai chủ đề người sói và ma cà rồng, là hai đề tài thu hút nhiều tính hiếu kỳ của con người.

Trong truyền thuyết ma cà rồng không thể sống chung với sói, sói là khắc tinh của ma cà rồng. Câu chuyện “Nhật thực”, Bella Swan yêu Edward Cullen (ma cà rồng) nhưng lại thân thiết với người sói Jacob Black.

Ma cà rồng, nguồn gốc theo truyền thyết Kabbale, nó tên là Lilith một phụ nữ có trước Eva và cùng lúc với Adam, được tạo ra từ đất. Lilith tranh giành quyền lực với Adam cho rằng cả hai cùng được tạo ra từ đất nền quyền lực như nhau. Cả hai cãi lộn và Lilith kêu tên Chúa rồi bỏ đi, từ đó Lilith luôn làm những việc quái ác chống lại hôn nhân và gia đình. Có lẽ biểu tượng này đang nói lên thực trạng của gia đình hôm nay, xem hôn nhân như một ràng buộc nhẫn tâm, trách nhiệm với con cái đang trở thành gánh nặng, tình yêu nam nữ là một thứ xa xỉ. Lilith chống lại khôn mẫu gia đình hạnh phúc và dẫn đến thực tại đau thương, Lilith đôi khi còn được gọi là mẹ của các ma cà rồng.

Cơn sốt về ma cà rồng bị thổi lên từ thế kỷ 17 và 18, gây sợ hãi tại Tây – Âu, nhà văn Ireland Bram Stoker hứng thú viết ra tiểu thuyết Dracula (1897). Và từ ấy tình tiết uống máu người để sống cứ được nhân lên cùng Dracula. Việc uống máu người biểu lộ một thú tính từ xưa đến nay, chiếm lấy sự sống của người khác để nuôi sống mình, biểu lộ cuộc tranh giành, cướp lấy, mạnh được yếu thua.

Người sói, liên quan mặt trăng (The Moon), mỗi khi trăng tròn người chuyển hóa thành sói, khi là sói xám nguyên hình, khi là mang hình người khuôn mặt sói. Nói đến tình biểu tượng của sói, người ta nghĩ ngay đến sức mạnh điên cuồng cắn xé, tranh giành quyền sống, đấu tranh sinh tồn.

Cả hai biểu tượng Ma cà rồng và Sói, như mặt trời với mặt trăng; khi thần linh đã chết bởi tay con người, con người chỉ còn hai thế lực tranh giành sống mái, để tồn tại và lưu truyền nòi giống. Khi giết chết Thiên Chúa con người đi vào chung cục của đam mê dục vọng và dẫn nhau tới tiêu diệt sau cuộc tranh giành. Một xã hội không có Thiên Chúa dẫn đến một xã hội tranh giành, cướp lấy, chiếm đoạt, tham lam, đê tiện… để giết chết con người bằng thú tính của kẻ gian ác.

Thể hiện đề tài tính dục:

Khi nguyên lý của tình yêu đích thực không còn tồn tại. Người sói, mang lấy bản chất đam mê dục tính của mình, như trong văn hóa cổ, sói là tổ phụ huyền thoại, biểu tượng sức mạnh tính dục. Tính dục ngày nay bị đẩy vào ngõ cụt của sự sống khi người ta cổ võ cho trần tục với tính chất khiêu dâm và những dụng cụ hưởng lạc đến thỏa mãn thú tính. Người sói mang tính hoang dâm tràn trề sinh lực, kẻ quyến rũ, chiếm đoạt tình yêu của người khác qua những khát vọng vụng trộm. Trong tranh hình thời trung cổ châu Âu, nam phù thủy thường hay biến đổi thành sói đực để đến các lễ hội sabat. Nữ phù thủy cũng dịp ấy đeo dây tua bằng da sói. Sói đực thường đồng nghĩa với man dã và sói cái với đồi trụy.

Ma cà rồng: Như tên đã kể về Lilith, một người đàn bà bị bỏ rơi bởi một người đàn bà khác. Lilith mang đầy lòng hận thù, ghen tuông, kẻ chuyên đi phá hoại tình yêu chân chính. Kẻ điên cuồng trong thú tính của mình, sát hại trẻ thơ. Trong cuốn “L’ art magique” (Ouvrage collectif, Paris, 1957, page 199) diễn tả: “Lilith là nữ thần ban đêm của đồng nội, rắp tâm quyến rũ Adam để sinh ra những quái vật trong sa mạc. Lilith là kẻ hút máu, có đôi mắt có thể tháo ra lắp vào, mang đến cho loài người thứ sữa độc hại, được so sánh với vầng trăng đen của vô thức, với những động năng tăm tối, chuyên ngấu nghiến thịt trẻ sơ sinh, tàn ác”. Biểu hiện ác thú nhất trong xã hội “văn minh sự chết” là không tình yêu, giết hại rất nhiều con trẻ từ trong bụng mẹ, kẻ giết chết các thai nhi để thỏa mãn những dục tình đen tối xui khiến.

Trình bày và thu hút.

Văn minh sự chết, thực sự không phơi bày cách hiển nhiên như thế, nó được vỏ bọc bằng những khung cảnh và những câu thơ trữ tình:

(Nhật thực, bắt đầu bằng cảnh Bella và Edward (do Kristen Stewart và Robert Pattinson thủ vai) đang âu yếm nồng nàn - dù hết sức trong sáng - trên một đồng cỏ đầy hoa dại. Trời chỉ đủ nắng để làm nổi bật làn da lấp lánh giá lạnh của Edward, nhưng không đủ rực rỡ để xóa đi tâm trạng ưu tư của anh. Bella thủ thỉ đọc bài thơ Lửa và Băng của Robert Frost viết về ngày tận thế. "Từ những đam mê tôi từng nếm trải," cô ngân nga, "Tôi thích những ai biết yêu ngọn lửa.") (A.O. Scott, trích Tuần Việt Nam, 5 – 7 - 2010).

Ngọn lửa và băng giá chỉ ra hai lãnh vực quá khích và trầm cảm. Trong một thế giới khi tình yêu hôn nhân bị chống phá cách kịch liệt, sự sống của con người bị xem thường quá đáng, người ta rơi vào hai trạng thái: Tự do tính dục, ủng hộ phá thai, đồng tính hoặc tự chọn cuộc sống cô lập, riêng biệt, không thích lập gia đình.

Phim “Nhật thực” cũng được trình bày với âm thanh, hình ảnh đặc sắc bằng công nghệ IMAX. Âm thanh, hình ảnh, để thỏa mãn giác quan của con người. Phim ảnh ngày nay cho thấy, kích thích giác quan để dẫn tới những ảo giác của đời sống, không còn muốn là con người mà chỉ muốn sống như thú hoặc những sinh vật xa lạ với con người (Legion; Avatar…). Thế giới loài người bị tranh giành giữa những lực lượng của cái ác, hoặc chọn trở thành ma cà rồng hoặc chọn là người sói. Cốt truyện không có lựa chọn thứ ba là tiếp tục làm người. Ảnh hưởng tục hóa ghê gớm nhất của văn minh sự chết là giết chết Thiên Chúa trong lòng người, từ đó con người không còn nhân tính, không còn muốn sống là người.

Dĩ nhiên, đây chỉ là những phân tích từ những huyền thoại trong bộ phim đang chiếu trên các màn ảnh. Những xu thế của con người khi giết chết Thiên Chúa, con người bị gậm nhấm bởi hiện tượng nhật thực ngay trong lòng mình. Mất đi Ánh Sáng đích thực dẫn lối, con người chỉ còn tranh giành sinh tồn trong bóng đêm.

L.m Giuse Hoàng Kim Toan

Mời các bạn cùng theo dõi bộ phim

Giới Thiệu


Phần 1/12


Phần 2/12


Phần 3/12


Phần 4/12


Phần 5/12


Phần 6/12


Phần 7/12


Phần 8/12


Phần 9/12


Phần 10/12


Phần 11/12


Phần 12/12

Thứ Hai, 18 tháng 10, 2010

Điểm tin tuần (10/10/2010 - 17/10/2010)





Thứ Sáu, 15 tháng 10, 2010

Cấm hay không cấm đốt đồ vàng mã tại nơi công cộng ?

Tại Việt Nam, từ đầu năm 2010, ngay vào giữa mùa lễ hội, nhiều tiếng nói bắt đầu cất lên đề nghị nhà nước cần sớm đưa ra các quy định pháp luật mới để ngăn cấm việc đốt đồ mã, một trào lưu ngày càng trở nên phổ biến.


Cảnh đốt đồ mã (DR)

Hành động này được nhiều người coi là để lại nhiều hậu quả tiêu cực, như gây tốn kém, ảnh hưởng đến an toàn và trật tự trong xã hội, đặc biệt là tại các địa điểm tín ngưỡng.

Trên thực tế, cuối năm 2006, một nghị định của chính phủ, trong đó có quy định cấm đốt vàng mã tại các nơi di tích trong thời gian lễ hội, đã được ban hành. Tuy nhiên, bất chấp việc cấm đoán về mặt nguyên tắc, trên thực tế, đồ mã ngày càng phát triển, thậm chí còn trở thành một mặt hàng sản xuất kinh doanh phổ biến, và là nguồn thu nhập của không ít người, đặc biệt tại các tỉnh phía bắc.

Trước áp lực của những người phản đối mạnh các tệ nạn gắn liền với việc đốt mã, Bộ Văn hóa – Thể Thao – Du lịch đã chuẩn bị ra một thông tư mới để điều chỉnh việc đốt mã tại các nơi di tích trong dịp lễ hội. Dự thảo thông tư đã nhận được rất nhiều ý kiến đa chiều.

Đầu tháng này, một cuộc trao đổi, do Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Việt Nam tổ chức, giữa các ông bà đồng, các thủ nhang và các nhà quản lý và nhà nghiên cứu đã được tiến hành. Một trong những nội dung của cuộc trao đổi này là tìm cách hạn chế các tiêu cực trong « tín ngưỡng truyền thống », cụ thể là trong việc đốt mã.

Trong khi thông tư về điều chỉnh việc đốt mã nơi lễ hội vẫn đang còn được cơ quan chuyên môn của Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch soạn thảo, thì ngay trong tuần qua, một nghị định của chính phủ, ghi ngày 12/7/2010, đã được ban hành, qui định rõ « phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đến 1 triệu đồng đối với việc đốt đồ mã tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử-văn hóa, nơi công cộng khác ». Phần liên quan đến đồ mã trong nghị định kể trên, về mặt nội dung gần như giống hoàn toàn với nghị định năm 2006 cũng do chính phủ ban hành.

Trên thực tế, tại Việt Nam hiện nay, nhiều người đang có xu hướng đi tìm một thỏa hiệp hay một nguyên tắc mang tính công bằng trong lĩnh vực phức tạp này. Để rộng đường công luận và tham gia vào cuộc trao đổi xung quanh vấn đề này, ban Việt ngữ RFI phỏng vấn giáo sư Trần Lâm Biền, nhà nghiên cứu về văn hóa « tín ngưỡng tôn giáo truyền thống », đồng thời là chuyên viên Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa – Thể Thao – Du lịch.

Mời nghe bài phỏng vấn nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền (Hà Nội):



Trọng Thành (RFI)

Thứ Năm, 14 tháng 10, 2010

Ngắm mặt trời vào thời điểm tuyệt vời nhất

Bình minh và hoàng hôn là lúc mặt trời thức giấc và đi ngủ. Đây là thời điểm mặt trời ở xa chúng ta nhấ nên ánh nắng trở nên dịu dàng hơn. Kết hợp với khung cảnh mây trời, non nước, mặt trời thực sự tạo nên những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.









































Thứ Ba, 12 tháng 10, 2010

Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên



Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên

Nguyễn Tất Nhiên, tên thật là Nguyễn Hoàng Hải. Sinh ngày 30 tháng 5 năm 1952 tại quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa và mất ngày 3 tháng 8 năm 1992 tại California.

Nguyễn Tất Nhiên theo học trường trung học Ngô Quyền từ năm 1963 cho tới năm 1970. Lúc mới vừa lên trung học đệ nhất cấp, Nguyễn Tất Nhiên đã làm thơ. Theo lời những người bạn cùng trường lúc đó, thơ của Nguyễn Tất Nhiên đã rất hay từ nhỏ. Lúc đó Nguyễn Tất Nhiên thành lập thi văn đoàn với bạn học là Đinh Thiên Phương, tên thật là Đinh Thiên Thọ. Cả hai thi sĩ học trò nầy cùng chung nhau xuất bản tập thơ Nàng thơ trong mắt năm 1966, khi đó Nguyễn Tất Nhiên được 14 tuổi. Trong tập thơ nầy Nguyễn Tất Nhiên lấy bút hiệu là Hoài Thi Yên Thi.

Tâm hồn nghệ sĩ của Nguyễn Tất Nhiên đã phát hiện trong người anh lúc ông còn rất trẻ. Đầu óc của ông được miêu tả lúc nào cũng như mơ mộng suy nghĩ đâu đâu, không tập trung ngay cả khi đang học. Bạn bè đùa thời gian này gọi ông là Hải Ngáo hay Hải Khùng.

Mối tình vô vọng với cô Duyên, nỗi đam mê, niềm đau khổ làm người, thể hiện qua những bài thơ của anh đã tạo nên phong các thơ của ông.

Sự nghiệp của Nguyễn Tất Nhiên thời gian đầu không mấy thành công: thơ ông in ronéo tặng không cho các nữ sinh đều bị quăng vào thùng rác. Những tập thơ gửi bán trong các tiệm sách đầu chợ Biên Hòa để đến giấy đổi màu vàng vẩn không bán được. Cho đến khi thơ ông được một số thầy giáo gửi đăng báo Sáng tạo của Mai Thảo, rồi Phạm Duy, Nguyễn Đức Quang thấy đó mà phổ nhạc thì mới bắt đầu nổi tiếng.

Vào khoảng năm 1972 hoặc 1973, Nguyễn Tất Nhiên nhận được giấy gọi nhập ngũ vào trường Võ bị Thủ Đức. Tuy nhiên mới vào Trung Tâm 3 Quang Trung, ông đã được cho thôi về vì lý do tâm thần bất ổn. Sau năm 1975, Nguyễn Tất Nhiên sống ở trong nước vài năm, sau đó sang đinh cư sang Pháp, rồi cuối cùng sang Mỹ sống ở Quận Cam.

Sau ông lấy vợ có tên là Minh Thủy, có 2 đứa con trai.

Ngày 3 tháng 8 năm 1992, người ta thấy ông nằm chết trong một xe hơi cũ, đậu dưới bóng cây trong sân chùa tại California.

Một bình luận về thơ Nguyễn Tất Nhiên

Anh nổi tiếng rất sớm. Vì thơ anh đi sớm hơn bước chân còn ngại ngùng bỡ ngỡ của thế hệ trẻ thời ấy trước sự tràn ngập của văn hóa phương Tây, qua hình ảnh người lính viễn chinh Mỹ, và qua phong trào hiện sinh mô phỏng trễ tràng trên đất nước đói nghèo, chiến tranh. Anh mạnh dạn nói được tiếng nói của tình yêu tuổi trẻ với sân trường, kỳ thi, chiến tranh, mất mát, hoài vọng, tuyệt vọng...

Chẳng phải sớm gì trong thể loại thơ, mà sớm trong phong cách biểu hiện. Anh dùng thứ ngôn ngữ của thời đại, rất hiện thực, không đẽo gọt; vậy mà thứ ngôn ngữ ấy bỗng nhiên mới, lạ, và được đón nhận nồng nhiệt. Bắt được giọng thơ tươi rói và đầy sức thu hút của anh, một nhạc sĩ tài danh phổ ngay thơ của anh thành nhạc, làm rung động bao trái tim cuồng nhiệt yêu đương thời chiến loạn. Vậy rồi thơ anh cất lên thành cơn sóng lớn, vượt bờ. Không ai mà chẳng biết thơ anh, không ai mà không hát nhạc phổ thơ của anh.

Hãy đọc một số bài thơ nổi tiếng được phổ nhạc mà ai cũng biết; và nên nhớ rằng lúc ấy, Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới xấp xỉ ở tuổi hai mươi, để thấy cái tài hoa dị thường của anh:

Khúc Buồn Tình
1.
Người từ trăm năm
về ngang sông rộng
ta ngoắc mòn tay
... trùng trùng gió lộng
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân
nào hay đời cạn!
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

người từ trăm năm
về như dao nhọn
ngọt ngào vết đâm
ta chết âm thầm
máu chưa kịp đổ
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)


2.
thà như giọt mưa
gieo xuống mặt người
vỡ tan vỡ tan
nào ta ân hận
bởi còn kịp nghe
nhịp run vồi vội
trên ngọn lông măng
(người từ trăm năm
vì ta, phải khổ!)
(1970)

Trong tình yêu, thơ anh táo bạo vay mượn những hình ảnh thánh thiện để ví von mình, ví von người tình. Có thể nói lối vay mượn này là bước khai phá có một không ai của anh vào thời ấy, khiến thơ anh càng thêm phần đặc dị, ngời sáng, mà lại gần gũi biết bao với tâm tình giới trẻ.

Ma Sœur
đưa em về dưới mưa
nói năng chi cũng thừa
phất phơ đời sương gió
hồn mình gần nhau chưa?

tay ta từng ngón tay
vuốt lưng em tóc dài
những trưa ngồi quán vắng
chia nhau tình-phôi-thai
xa nhau mà không hay
(hỡi em cười vô tội
đeo thánh giá huy hoàng
hỡi ta nhiều sám hối
tính nết vẫn hoang đàng!)

em hiền như "ma sœur"
vết thương ta bốn mùa
trái tim ta làm mủ
"ma sœur" này "ma sœur"!
có dịu dàng ánh mắt?
có êm đềm cánh môi?
ru ta - người bệnh hoạn
ru ta suốt cuộc đời
(cuộc đời tên vô đạo
vết thương hành liệt tim!)

đưa em về dưới mưa
xe lăn đều lên dốc
chở tình nhau mệt nhọc!

đưa em về dưới mưa
áo dài sầu hai vạt
khi chấm bùn lưa thưa...

đưa em về dưới mưa
hỡi em còn nít nhỏ
chuyện tình nào không xưa?

vai em tròn dưới mưa
ướt bao nhiêu cũng vừa
cũng chưa hơn tình rụng
thấm linh hồn "ma sœur"...

(1971)

Linh Mục
1.
dĩ vãng là địa ngục
giam hãm đời muôn năm
tôi -- người yêu dĩ vãng
nên sống gần Sa-tăng
ngày kia nghe lời quỷ
giáng thế thêm một lần
trong kiếp người linh mục
xao gầy cơn điên trăng!

2.
vì tôi là linh mục
không mặc áo nhà giòng
nên suốt đời hiu quạnh
nên suốt đời lang thang!

vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
(một tín đồ duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông!)

vì tôi là linh mục
phổ lời tình nhân gian
thành câu thơ buồn bã
nên hạnh phúc đâu còn
nên người tình duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông!

vì tôi là linh mục
không biết mặt thánh thần
nên tín đồ duy nhất
cũng là đấng quyền năng!


3.
tín đồ là người tình
người tình là ác quỷ
ác quỷ là quyền năng
quyền năng là tín đồ
tín đồ là người tình
thiêu hủy lầu chuông tôi
(vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian!)


4.
vì tôi là linh mục
không biết rửa tội người
nên âm thầm lúc chết
tội mình còn thâm vai...

(1970)

Ðụng chạm, lôi kéo những biểu tượng linh thiêng, đưa vào thơ và đưa vào tình yêu đời thường. Vậy mà anh chẳng làm mất lòng ai. Người ta vẫn cứ thích thú ca hát lời thơ của anh:

Hai năm tình lận đận
1.
hai năm tình lận đận
hai đứa cùng xanh xao
mùa đông, hai đứa lạnh
hơi thở dài như nhau (?)

hai năm tình lận đận
hai đứa cùng hư hao
(em không còn thắt bính
nuôi dưỡng thời ngây thơ
anh không còn luýnh quýnh
giữa sân trường trao thư!)

hai năm tình lận đận
hai đứa đành xa nhau
em vẫn còn mắt biếc
anh vẫn còn nôn nao
ngoài đường em bước chậm
trong quán chiều anh ngóng cổ cao...


2.
em bây giờ, có lẽ
toan tính chuyện lọc lừa
anh bây giờ, có lẽ
xin làm người-tình-thua
chuông nhà thờ đổ mệt
tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ, có lẽ
rơi xuống trần gian, mưa
(dù sao thì Chúa cũng
một thời làm trai tơ
dù sao thì Chúa cũng
là đàn ông... dại khờ!)

anh bây giờ, có lẽ
thiết tha hơn tín đồ
nguyện làm cây thánh giá
trên chót đỉnh nhà thờ
cô đơn nhìn bụi bặm
làm phân bón rêu xanh
(dù sao cây thánh giá
cũng được người nhân danh!)


3.
hai năm tình lận đận
em đã già hơn xưa!...

(1972)

Anh thoát ra khỏi những hình ảnh và ngôn ngữ thơ chắt lọc, sang cả quí phái của nền thơ truyền thống. Thơ anh, không cứ là trăng là gió, là bến nước, bờ mây, tóc thề và áo dài bay tha thướt, mái tranh, cây đa hay gốc chuối... (như thể là người thơ cứ suốt đời ở nhà quê, cảnh cũ!) mà thay vào đó là những hình ảnh rất thực của thị thành với "tóc demi garçon", tóc bính, cột điện, với xe đạp, cà phê, cà phê đá, rạp cải lương, nhà ga và toa tàu, mùa thi với văn bằng... Tự ví mình như là một gã ngông cuồng, là người phá phách, là người vô đạo, là sa-tăng ác quỷ... nhưng trên thực tế thì anh rất hiền, và trong tình yêu, thường là người thua cuộc, hoặc tự nguyện chịu thua cuộc. Trách người chỉ là trách nhẹ nhàng. Còn lại là trách mình.

Thơ tình của anh vì vậy mà phổ cập, mà thành của chung. Ai đọc cũng thấy, cũng nghe được nhân dáng và kinh nghiệm của chính mình trong ấy. Từ thứ tình yêu reo vui, nhảy múa theo nhịp chân của "cô Bắc-kỳ nho nhỏ" cho đến tình yêu của người tuyệt vọng... anh nói thay mọi người bằng thánh ca của tình yêu.

Nhưng đặc biệt là lúc khổ đau vì tình, thơ anh chùng xuống, gãy đổ, nát tan... và quả là anh đã đi thật sớm, trước thế hệ của anh, trong sự cảm nhận cũng như lối biểu đạt về tình yêu:

Thiên thu
sao thiên thu không là xa nhau?
nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập
và một con đường cúp điện rất lâu!

sao thiên thu không là chôn sâu?
nên nắng xưa còn hanh mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau!

sao thiên thu không là đường chim?
nên mây năm xưa còn trên tay phiền
tôi đứng như tường vôi luống tuổi
và những tàng xanh chùm gởi quê hèn!

sao thiên thu không là lãng quên?
nên tình xưa còn cháy âm thầm
tôi đứng như căn nhà nám lửa
và những người thân trốn chạy vội vàng!

sao thiên thu không là sương tan?
nên mặt trời xưa còn gượng huy hoàng
tôi đứng như dòng sông yên lặng
và những cánh buồm kiệt sức lang thang!

sao thiên thu không là thiên thu?
nên những người yêu là những ngôi mồ
tôi đứng một mình trong nghĩa địa
và chắc không đành quên khổ đau!

(1970)

Trong thơ lục bát, anh vẫn theo vần nhịp cũ nhưng lối diễn đạt rất là thảnh thơi, thoải mái, tự nhiên như nói chuyện. Ðây, vần lục bát của hơn 30 năm trước:

Nên thời gian ấy ngùi trông
giọt mưa xanh mấy tuổi nàng
tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa

hơi tàn tro ấm lần đưa
ba năm khơi lại cũng vừa đủ đau!

sớm, trưa, chiều, tối, ra, vào
người chưa yên nỗi thầm xao xác lòng
nên thời gian ấy ngùi trông
khô như hạt bụi trưa ngừng ngập bay...

ba năm vuốt sợi tình dài
ừ, tôi còn vụng ngón-tay-dậy-thì
thuở nào sầu đã lâm ly
giờ thêm già héo (nhiều khi hận thù!)

lửa đom đóm mỏi mòn, lu
nhưng tôi cứ buồn vi vu thổi hoài

mưa thì mưa thả phai phai
rồi sau đó sẽ một vài tang thương
bởi quen cầm lược soi gương
biết ai ôm gối mộng thường lâu chăng?

giọt mưa xanh mấy tuổi nàng
tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa...

(1970)

Hôm nay
khi không tình não nùng buồn
gót chân ai bỏ con đường nhớ nhung
gót chân ai nhẹ vô cùng
dẫm lên xác-lá-tôi từng tiếng kêu
gót chân ai bước, nhẹ hều
bước qua tôi, bước, hư nhiều thói quen!

khi không tình não nùng buồn
nhớ hôm qua vẫy tay ngừng ngập xa
tóc ai ngắn ngắn, như là
suốt đời chưa chịu thiệt thà chấm vai
suốt đời khét nắng rong chơi
kể như hơi hướm bàn tay tôi, thừa!

mừng em sớm biết lọc lừa
biết ngây thơ giả -- biết đùa với đau!

biệt ly dù ở ga nào
cho tôi ngồi một toa tàu lãng quên...

(1974)

Ðó là Nguyễn Tất Nhiên của tuổi hai mươi, với TÌNH qua tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên; và bây giờ hãy đọc Nguyễn Tất Nhiên với TÂM qua Tâm Dung. Tập trước được xuất bản năm 1980 (gom lại những bài thơ cũ trước năm 1975 và một số ít cuối thập niên 70) khi anh mới vượt biên ra hải ngoại; tập sau được xuất bản 9 năm sau đó. Tựa tập thơ là Tâm Dung, bao gồm nhiều bài thơ bắt đầu bằng chữ TÂM (như Tâm khai, Tâm sân, Tâm hoa, Tâm xuân, Tâm hồng, Tâm hương, Tâm mưa, Tâm sương, Tâm ca, Tâm cảm...) được chính tác giả mở đầu bằng một đoạn rất thâm trầm về tư tưởng Phật giáo, khiến người đọc có cảm tưởng là sẽ được đọc một tác phẩm về Thiền vậy:

"Dung, theo nghĩa dung chứa.
Năm lần Phật chỉ cho ngài A Nan, tâm là cái thấy.
Lấy cái thấy phân biệt để chỉ cái thấy vô phân biệt, lấy cái tâm vọng để chỉ cái tâm chơn, lấy ngón tay phàm phu để dụ như ngón tay Phật chỉ trăng. Kẻ trèo đèo này chỉ mong góp một cỏn con Phật sự, vọng động chăng?
Chỉ mong quí thiện hữu niệm tình: vọng mà biết mình vọng, còn hơn không."

Nguyễn Tất Nhiên
(Westminster, Ca. ngày 12/01/89)

Nhưng không. Dù mào đầu như thế, dù chọn lựa chủ đề và tựa đề như thế, thơ anh vẫn cứ là thơ, không phải là tập giáo nghĩa khô khan, cứng nhắc. Chỉ khác là anh đã chững chạc hơn (dĩ nhiên!), bớt bông đùa hơn, và trải đều lên những trang thơ là cõi lòng bát ngát của anh.

Tâm nguyệt
từ gót sen hài em hút dấu
sầu tôi như lá thẫn thờ bay
ví dù lá ngập đường em bước
lá cũng xin đừng bận gót ai...

từ mắt chia lòng sông cách núi
sầu tôi như bụi khắp không gian
ví dù bụi ố hoen màu trắng
bụi cũng xin đừng vương mắt xanh...

từ tóc bay xuôi dòng quá khứ
sầu tôi như bóng lặng lờ trôi
ví dù bóng đẳng đeo tròn kiếp
bóng cũng xin dòng tóc thảnh thơi...

từ hơi thở của không gian khác
sầu tôi như lịch nhẩn nha rơi
mỗi ngày thiên hạ hồn nhiên xé
lịch mới, như tờ-thương-nhớ-tôi!

từ hoa môi của bình minh khác
núi đồi vắng cả tiếng thông reo
chim thôi cười chúc mừng hoa lá
thành-phố-tôi già ho động cơ

từ vỡ, lành trăng lồng bóng nước
từ em là nguyệt lộng đời sông
từ tôi là một dòng tâm nguyệt
sông có trăng cười sông xóa trăng...

(06/01/1989)

Tâm duyên
1.
mùa hè anh lên núi
thấy tóc em lành nhiên
cười theo chiều, gió tối
trời đi vào giấc yên
cho sự sống duyên hiền
từng búp hoa huệ nhỏ
cho sự sống hương êm
từng thoảng hoa huệ thở
sự sống trắng tinh im
từng nụ quan-âm nở
im lặng là xin dâng
tặng đời bông hoa nữa...

mùa hạ anh ra đường
thấy mới tinh tất cả
thấy nắng nôi dịu dàng
đang vuốt ve cây cỏ
thấy cây cỏ dễ thương
đang làm duyên, tóc xõa
thấy lửa trời nung ngon
chín bòn bon sự sống
thấy sự sống nhịp nhàng
theo đỏ, vàng, xanh, đỏ...
thấy phố xá từ tâm
đèn cười hoa ba đóa...

(17/01/89)

Rõ ràng là anh đã học ở đâu, từ những vật vô tri, từ người tình, từ cuộc đời, từ nỗi buồn đau, từ cơn thất chí, từ niềm tuyệt vọng, từ cơn bệnh tưởng, từ một nền đạo lý hun đúc tâm anh, hay từ tất cả những thứ trên: đức khiêm nhẫn và lòng tha thứ, chịu đựng vô cùng:

Tịnh khúc
buồn ơi...
tôi bỏ tôi chìm đắm
trong tiếng làm thinh của ghế bàn
ghế bàn không sẻ chia sầu thảm
nhưng biết làm thinh lặng cảm thông
bàn ghế đâu như người vui nhảm
tọc mạch đời nhau để miệng mồm
buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế
chịu đựng đời không biết thở than!

buồn ơi...
tôi bỏ tôi tàn tạ
lạy đời xin một bận ngó lơ
lần té nặng này tôi muốn giữ
cho tim đừng hối hận trèo cao
lần té nặng này tôi muốn sống
buồn ơi, đừng giết chết tình nhau
buồn ơi, tôi muốn hôn đời sống
dù môi nhầu nứt nẻ thương đau!

buồn ơi...
tôi bỏ tôi ngây dại
có phải thu-bồn chở tóc ai
có phải lần run tay vuốt đại
là lần đời biết thứ tha tôi
có phải lần xin tay nắm... đại
là lần té gập dưới bàn tay?
buồn ơi, tôi muốn dâng đời sống
một đóa hồng đau đớn tuyệt vời!

buồn ơi...
tôi bỏ tôi rời rã
bất lực làm sao trước cuộc đời
ừ nhỉ, trước giờ tôi chiến đấu
cho niềm bất lực buổi hôm nay!
ừ nhỉ, bây giờ tôi mới biết
ghế bàn nên kính trọng như thầy
bàn ghế dạy tôi điều nhẫn nhục
dạy tôi bình thản thứ tha đời
bàn ghế có bao giờ bất lực
có bao giờ biết đợi trông chi
buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế
thương đời như thể bỉ khinh thôi!

buồn ơi...
tôi bỏ tôi gần chết
tay đời bít lối chẳng ngưng tay
u đầu sứt trán lao vào vách
tội tình tôi sao nặng thế này?

buồn ơi...
trong đám đông tàn nhẫn
một người chứng kiến đủ cho tôi
nhờ ai, tôi đã thành tâm nhẫn nhờ ai,
tôi phục dưới chân đời
buồn ơi, tôi muốn như dòng lệ
cay đời như kẻ thích ăn cay!

buồn ơi...
tôi có tôi-bàn-ghế
nguyện hiến cho đời một tấm lưng

(13/01/89)

Ðiều anh học được, làm được, cũng cho ta học được. Một tấm lòng khiêm cung, khiêm nhẫn. Một tấm lòng bao dung, tha thứ, và trên hết, vẫn tiếp tục yêu thương con người, yêu thương cuộc đời.

Sau đây là bài Tâm Dung, bài thơ được lấy đặt tên chung cho tập thơ. Bài thơ được đặt ở cuối tập. Không rõ sau bài này, Nguyễn Tất Nhiên còn những bài khác chăng.

Nhưng đọc xong bài này, tôi nghĩ đời thơ của anh đến ngang đây cũng quá đủ rồi.Không cần phải thêm một bài nào nữa. Ðây không phải là một bài thơ tuyệt tác của nền văn học nước nhà, mà là lời tỏ tình tuyệt vời của một tín đồ thuần thành của tình yêu, suốt đời chỉ tận tụy yêu, và tụng đọc bài kinh yêu. Sau đây là vài trích đoạn:

Tâm dung
1.
có thể nào trẻ thơ sống bên ngoài lòng mẹ? có thể nào anh sống ngoài tầm mắt em?
...
4.
vì người yêu thương trời đất cũng yêu thương, vì em đang ban phát yêu thương, vì anh cũng là thành phần muôn một của đất trời, nên cho dù em không hay không biết yêu thương vẫn thấm nhuần đều trên cuống đọt ngàn xanh dù em không biết không hay anh vẫn lan âm thầm khắp mặt địa cầu bất đồng khí hậu nhưng phải chăng em, nơi đá khô đất khó nào mà không diệp lục phải chăng em, đồng hoang man dã nào mà không có hoa chỉ tay em? vì em đang ban phát yêu thương nên anh khẩn xin là cọng cỏ được lần nào của chân em, tội nghiệp cho anh lòng còn ham muốn, tội nghiệp cho anh một đơn thân cỏ dại đòi chỉ riêng dành cho ngón ngón nhịp nhàng nhịp từng mỗi nhịp tim...
5.
tình yêu sao mà đau khổ với khổ đau, toại nguyện phải chăng là hạnh phúc? em lý lẽ gần nhau tình sẽ chết, vậy người ta sinh ra, sống, để làm chi?
6.
anh cô đơn ca hát vu vơ lời gì vô ý chỗ đám đông nơi con người dễ dàng phỉ báng kẻ điên khùng, ấy chết, anh chẳng thể viện lý do cuộc sống vắng em, dù em sẽ tin, nhưng thảm trải dưới chân có lời nào giải thích? dưới chân tình yêu, anh xin thành khẩn hứa chịu đựng ngang nhau hết thảy kẻ thân, thù.
.......
10.
anh muốn dụi tóc vào những ngón tay em cho hiện ra vài điểm bạc, cho thời gian đẹp phôi phai, cho sen lòng anh ngày mỗi thêm một đóa, cho hoa huệ hoa trang em đong đưa ngần ấy búp nhỏ đơm hương cho gió tình thơm tho không phân biệt chiếm hữu, tự do.
11.
mặt đất kia phù sa đắp bồi cho lúa no hạt mởn mơ bông, ruộng lòng anh đòng đòng tươm mắn sữa vì em là mưa hạ nắng đông là suối sông nguồn lượng cho rễ ngon khoáng chất trẩy hoa cành, vườn lòng anh xanh ngát tận chân trời vì em là yêu thương không phân biệt hoa nào là hoa hạnh phúc quả nào là quả đau thương.
12.
buổi sáng tinh khôi bừng mắt dậy thấy hoa lá không tên bóng động hình bên cửa sổ đùa gió vui sương, môi cười theo hồn nhiên nụ, hoa cười hay anh cười? trưa trưa rực nắng chan vàng đồng hướng dương hực vàng một cánh ngút ngàn chân mây, những nụ cười hàm tiếu tròn đầy, anh cười hay hoa cười? chiều chiều nghiêng nghiêng nắng dịu nghiêng nghiêng mình chào người và người chào đáp lại, người cười hay tim cười? buổi tối anh ngon lành êm ả ngủ, thở đều hòa nơi một kẽ ngón chân em, em thở hay anh thở...
(19/01/89)

Sau đó không thấy thơ Nguyễn Tất Nhiên nữa. Rồi một hôm, nghe tin anh mất. Trên chiếc xe cũ, đậu dưới bóng cây, trong vườn một ngôi chùa. Ðời anh, lúc nào cũng đi sớm hơn kẻ khác. Ðời không ruồng bỏ anh, cũng chẳng người tình nào ruồng bỏ anh (không ai có thể ruồng bỏ một người đáng yêu như thế! mà cũng chẳng ai có thể ruồng bỏ được một gã yêu tha thiết, yêu miệt mài, yêu thủy chung suốt đời như thế!).

Chỉ có anh, tự ý đi thật sớm, rời bỏ cuộc đời, để lại một cõi thơ bát ngát. Không cần phải tội nghiệp cho anh, và đừng tưởng anh khổ đau cùng tận! Anh là kẻ hạnh phúc vô cùng tận với tình yêu bất diệt và tấm lòng bao dung hiếm có. Và thơ anh, đã hóa thân khắp nơi khắp chốn: là ngọn cỏ mềm, là gió mơn man, là dòng sông êm, là bàn ghế lặng thinh, là đất trời mênh mang vô hạn... Nơi đó, có đủ hương vị của tình yêu cũng như những hỉ, nộ, ái, ố... bình thường của một con người, dù là con người thi sĩ, hay văn sĩ. Nhưng tất cả đều được dung chứa trong một cõi lòng thật rộng. Có thể nói, giới hạn giữa sống-chết, qua Tâm Dung ấy, không còn nữa.

Mời nghe một số tác phẩm của Nguyễn Tất Nhiên .

Vì Tôi Là Linh Mục



Thà như Giọt Mưa



Em Hiền Như Ma Sœur



Trúc Đào



Cô Em Bắc Kỳ Nho Nhỏ






Thứ Hai, 11 tháng 10, 2010

Điểm tin tuần (03/10/2010-10/10/2010)



Mời các bạn theo dõi bản tin thời sự tổng hợp ngày 10/10/2010 của Đài truyền hình Việt Nam VTV.